Home Kinh tế vĩ mô Kinh tế số là động lực quan trọng trong thực hiện công...

Kinh tế số là động lực quan trọng trong thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa

0

Việt Nam có cơ hội “đi cùng” với các nước trong cuộc cách mạng công nghiệp. Bối cảnh hiện nay là “thời cơ vàng” mà ta cần nắm bắt nhanh chóng, hành động kịp thời và quyết liệt, để tận dụng cơ hội phát triển các dư địa và nguồn lực phát triển mới, tối ưu hóa các nguồn lực để tạo ra một năng suất cao hơn góp phần thay đổi thứ hạng quốc gia, đưa nền kinh tế bước vào một quỹ đạo tăng trưởng mới mang tính bứt phá.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) không chỉ là xu thế mà còn là sự lựa chọn mang tính tất yếu khách quan, là sự tiếp bước của công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong quá trình phát triển của thế giới đương đại. Song hành với sự phát triển mạnh mẽ mang tính gắn kết giữa các công nghệ số hóa và kinh tế số, sự xuất hiện ngày càng nhiều và đa dạng các hình thức kinh doanh mới dựa trên công nghệ số đã tạo nên sự thay đổi to lớn và nhanh chóng trong kinh tế, xã hội và mọi mặt của đời sống con người. Những công nghệ tiêu biểu như phân tích dữ liệu lớn (big data analysis), in 3D, robot và tự động hóa quá trình (RPA), trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT) và blockchains đang dẫn dắt nền kinh tế toàn cầu, khoảng cách giữa không gian vật lý và không gian kỹ thuật số đang dần được thu hẹp lại. CMCN 4.0 có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình thu hẹp khoảng cách này và rõ ràng, cuộc cách mạng này đang đưa nhân loại tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

Số hóa là một trong những xu thế lớn của công nghệ trong CMCN 4.0 và xu hướng này đang diễn ra rất nhanh ở nhiều quốc gia, đặc biệt tại một số nước đi đầu và các nước đang phát triển. Kinh tế số đã trở thành một bộ phận đóng góp ngày càng lớn trong tổng sản phẩm của các quốc gia. Việc ứng dụng sâu rộng công nghệ thông tin trong mọi hoạt động của nền kinh tế theo hướng hiệu quả hơn, tối ưu hơn đã hình thành một nền kinh tế số không biên giới, mang lại giá trị kinh tế cao. Kinh tế số không chỉ tạo ra thêm quy mô và tốc độ tăng trưởng, mà còn góp phần quan trọng làm thay đổi phương thức sản xuất và cấu trúc kinh tế. Với sự xuất hiện của kinh tế số, bên cạnh các nguồn lực truyền thống, đang xuất hiện nguồn lực phát triển mới xanh hơn là tài nguyên số, sức mạnh tài chính đang dần chuyển sang sức mạnh thông tin. Trong giai đoạn hiện nay, sức mạnh và tính bền vững của một quốc gia được đo bằng sự phát triển của công nghệ cao, thông tin và trí tuệ con người, và trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng được đo lường bằng các tiêu chí này.

Để thích ứng với tình hình mới và tận dụng cơ hội mà cuộc CMCN 4.0 mang lại, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0, trong đó nhấn mạnh yêu cầu cấp bách để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030”, Quyết định số 411/QĐ-Ttg phê duyệt “Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành chương trình/chiến lược về Chuyển đổi số quốc gia. Với những quyết định này, tầm nhìn của Việt nam là trở thành quốc gia số ổn định và thịnh vượng, đi tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới, đổi mới căn bản và toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân. Kinh tế số được đặt ở mức ưu tiên cao trong các chiến lược phát triển quốc gia, công nghệ số và dữ liệu số sẽ thấm sâu một cách tự nhiên vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của người dân. Mô hình tăng trưởng dựa nhiều hơn với các yếu tố đầu vào là công nghệ số và dữ liệu số, và phương thức tăng trưởng này sẽ ngày càng giữ vai trò chủ đạo, để nền kinh tế Việt nam sẽ phát triển nhanh hơn nhưng bền vững hơn, tăng trưởng bao trùm và thích ứng, kiên cường hơn trước các thách thức của một thế giới biến động ngày càng khó lường hơn.

Do vậy, trong thời gian tới, để tận dụng được những lợi thế của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, phát triển số với việc tạo ra tăng trưởng dựa trên yếu tố đầu vào là công nghệ số và dữ liệu số, sẽ trở thành một phương thức phát triển chủ đạo mới, để nước ta tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa, phát triển nhanh, bao trùm, thích ứng và kiên cường trước các thách thức trong thế giới đầy biến động, góp phần đưa nước ta vượt qua mức thu nhập trung bình thấp vào năm 2025, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045.

1. Khái niệm và đo lường “nền kinh tế số”

Cho đến nay, kinh tế số đã trở thành một thuật ngữ có nhiều khái niệm và cách đo lường khác nhau. Theo nghĩa hẹp, kinh tế số chỉ bao gồm các lĩnh vực công nghệ thông tin – truyền thông, trong khi nghĩa rộng hơn bao gồm các ngành nghề có mô hình kinh doanh gắn liền với công nghệ số và nền tảng số (các nền tảng trực tuyến, các dịch vụ hỗ trợ nền tảng như nền kinh tế chia sẻ, tài chính cộng đồng). Nghĩa rộng nhất của kinh tế số bao gồm toàn bộ mạng lưới các hoạt động kinh tế và xã hội dựa trên nền tảng số, các lĩnh vực kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic, tài chính ngân hàng,…), chính phủ số, xã hội số.

2. Khái niệm “nền kinh tế số” theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng

Nguồn: Buhkt and Heeks (trong Tương lai nền kinh tế số Việt Nam hướng tới năm 2030 và 2045)

Kinh tế số là các hoạt động kinh tế và phương thức sản xuất kinh doanh dựa trên công nghệ số và dữ liệu số làm yếu tố đầu vào chính, sử dụng môi trường số làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin – viễn thông để tăng năng suất lao động, đổi mới mô hình kinh doanh và tối ưu hóa cấu trúc nền kinh tế. Kinh tế số đang mở ra cơ hội lớn cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Việt Nam được coi là một nước có tiềm năng tăng trưởng kinh tế số mạnh mẽ và sẽ trở thành một quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số ở mức khá trong khu vực ASEAN. Mục tiêu của Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025 là kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; đến năm 2030 là kinh tế số chiếm 30% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%.

Với cấu trúc kinh tế số như trên, nước ta chủ trương phát triển kinh tế số ICT với trọng tâm là doanh nghiệp, sản phẩm công nghệ số Make in Việt Nam, hài hòa với thu hút FDI có chọn lọc, gia tăng hàm lượng xuất khẩu, phát triển kinh tế số nền tảng với trọng tâm là các nền tảng số quốc gia, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế số ngành, lĩnh vực, phát triển kinh tế số ngành với trọng tâm là ưu tiên đưa vào sử dụng các nền tảng số dùng chung, thống nhất trong từng ngành, lĩnh vực.

Theo Báo cáo thường niên của ba tổ chức Google, Temasek và Bain về nền kinh tế số tại các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam luôn là một trong những nước đi đầu về phát triển kinh tế số trong khu vực. Dựa trên số liệu thống kê của Bain trong 3 năm 2019, 2020 và 2021, tổ chức này ước tính cho đến năm 2025 tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) của nền kinh tế số tại Việt Nam sẽ được giữ cố định ở mức 29%. riêng năm 2021, tốc độ tăng trưởng lại nhảy vọt lên 31%, cao hơn dự báo, thể hiện sự hồi phục nhanh chóng của nền kinh tế số Việt Nam. Thị trường trong nước đã dần thích nghi với hoạt động mua và bán hàng hoá qua mạng, nhu cầu buôn bán trực tuyến cũng ngày một tăng cao làm cho tốc độ tăng trưởng so với 2020 được cải thiện rõ rệt.

Chính do những chênh lệnh giữa tỷ lệ tăng trưởng dự báo của nền kinh tế số và tỷ lệ thực tế qua từng năm tại Việt Nam, nhóm phân tích của Bain đã điều chỉnh lại mức tổng giá trị hàng hoá (GMV) dự kiến cho năm 2025 qua từng năm. Trong báo cáo năm 2019, Việt Nam ước tính đạt 43 tỷ USD tổng giá trị giao dịch vào năm 2025 với mức tăng trưởng 29%/năm kể từ 2015. Trên thực tế năm 2019 lại có tốc độ tăng trưởng vượt trội (38%), dẫn tới những thay đổi trong dự báo của Bain để duy trì tỷ lệ 29% trong 2 năm tiếp theo. Với tổng lượng giá trị hàng hoá tiếp tục tăng trưởng đạt 14 tỷ đô vào năm 2020, tổ chức này đã tăng mức dự báo cho nền kinh tế số lên 52 tỷ USD, cao hơn 9 tỷ so với năm 2019. Đối với năm 2021, con số này lại tiếp tục được điều chỉnh tăng thêm 5 tỷ USD, đạt mức 57 tỷ vào năm 2025. Dự báo đến năm 2030, khu vực Đông Nam Á sẽ bước vào “Thập kỷ kỹ thuật số” với những thay đổi đáng kể trong hành vi của người tiêu dùng và hoạt động kinh doanh trực tuyến. Theo phân tích của Bain, nền kinh tế kỹ thuật số tại Việt Nam năm 2030 có khả năng tăng gấp 11 lần so với 2021 và đạt đỉnh tại 220 tỷ USD tổng giá trị hàng hóa điện tử được bán.

3. Dư địa tăng trưởng từ kinh tế số của Việt Nam còn rất lớn

Các yếu tố cấu thành kinh tế số tại Việt nam hiện đang có những dự địa tăng trưởng khác nhau (Nguyễn Trọng Đường, 2021). Kinh tế số lõi ICT đang chiếm khoảng 4,5% GDP toàn cầu, khoảng 6,9% GDP của Mỹ và 7% GDP Trung Quốc. Với Việt Nam, kinh tế số ICT ước tính đang chiếm khoảng 5,5 % GDP cả nước, cao hơn mức bình quân toàn cầu 1%.

Về cấu phần kinh tế số Internet/kinh tế nền tảng hiện nay ở Việt Nam ước tính chỉ mới khoảng 1,7% GDP, rất thấp so với trung bình toàn cầu là 15% GDP toàn cầu, và so với 21% GDP của Mỹ và 30% GDP Trung quốc, do vậy dự địa tăng trưởng còn lớn.

Về cấu phần kinh tế số ngành, lĩnh vực thường chiếm khoảng 10% GDP toàn cầu. Ở Việt Nam, kinh tế số ngành, lĩnh vực ước tính hiện chiếm khoảng 1,7% GDP, cũng cho thấy kinh tế số internet Việt Nam còn dư địa phát triển rất lớn.

Để mô phỏng dự báo tác động của kinh tế số đến tăng trưởng kinh tế, Cameron và cộng sự (2019) trong Báo cáo “Tương lai nền kinh tế số của Việt Nam” đã đưa ra 4 kịch bản như sau: Kịch bản 1: Nền kinh tế chuyển đổi số chậm và NSLĐ trì trệ; ứng dụng công nghệ số đóng góp 0,38% hàng năm vào tăng trưởng. Kịch bản 2: Nền kinh tế đã chuyển đổi số sẽ gia tăng ứng dụng công nghệ số và phát triển ngành CNTT, gia tăng NSLĐ ở khắp các ngành; ứng dụng công nghệ số đóng góp 1,1% hàng năm vào tăng trưởng. Kịch bản 3: Nhà xuất khẩu số khi ngành CNTT Việt Nam phát triển dựa vào hoạt động thuê ngoài cho các quốc gia khác, tuy nhiên sự áp dụng các công nghệ số nội bộ ở khắp các ngành còn thấp; ứng dụng công nghệ số đóng góp 0,45% hàng năm vào tăng trưởng. Kịch bản 4: Ứng dụng số diễn ra mạnh ở tất cả các ngành, tạo ra tác động tích cực lên NSLĐ trên cả nước, Chuyển đổi công nghiệp diễn ra trên diện rộng nhưng chi phí cao do phải nhập khẩu công nghệ và nền tảng từ nước ngoài. Các công ty đa quốc gia có vai trò chi phối trong cung cấp sản phẩm và dịch vụ CNTT-TT, ngành CNTT-TT của Việt Nam có thị phần nhỏ bé.cải thiện năng suất trong tất cả các ngành; ứng dụng công nghệ số đóng góp 0,63% hàng năm vào tăng trưởng.

Các mục tiêu phát triển kinh tế số mà Đảng, Chính phủ đặt ra là rất thách thức, bởi theo kịch bản phát triển thông thường thì đến năm 2025 kinh tế số Việt Nam chỉ đạt mức 10,5% GDP. Để đạt được mục tiêu kinh tế số chiếm 20% theo kịch bản phát triển nhanh, chúng ta cần duy trì mức tăng trưởng kinh tế số bình quân hàng năm khoảng 20%, gấp 3 lần tăng trưởng GDP dự kiến (6,5-7%/năm). Đây là một kịch bản không dễ dàng để thực hiện được, cùng với các mục tiêu rất cao về xã hội số, đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, và sự đầu tư xứng tầm của tất cả các bộ, ngành, địa phương cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.

Nguồn: Quách Hồng Trang “Tình hình phát triển kinh tế số tại Việt Nam”, 2021

4. Cải thiện năng suất lao động trong bối cảnh kinh tế số

Mặc dù năng suất lao động tổng thể của nước ta tăng đều qua các năm nhưng nhìn chung hiệu suất lao động của toàn nền kinh tế còn rất thấp và khoảng cách tuyệt đối về năng suất lao động với các nước trong khu vực vẫn còn khá xa. Phân tích định lượng trong giai đoạn 2012-2017, xét về tổng thể cho thấy ảnh hưởng của kinh tế số đến năng suất lao động Việt Nam rất khiêm tốn với tỉ lệ tăng trưởng đạt 5,3%, thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác; tuy nhiên, có thể thấy đây là giai đoạn phát triển ban đầu của kinh tế số tại Việt Nam. Các động lực trước đây nhằm duy trì mức tăng năng suất lao động đang dần cạn kiệt và thiếu hiệu quả, kinh tế số được kỳ vọng sẽ là một động lực mới cho cải thiện năng suất lao động trong giai đoạn tới. Đến năm 2019, Việt Nam đã dần thu hẹp được khoảng cách tuyệt đối về năng suất lao động với các nước ASEAN khác có trình độ phát triển cao hơn. Như vậy, khi kinh tế số và chuyển đổi số trên đà tăng trưởng sẽ làm thay đổi cơ bản hiệu quả và năng suất của nhiều ngành kinh tế.

Theo một nghiên cứu về năng suất lao động hiện nay ([1]), ở kịch bản gốc chưa tính đến tác động của kinh tế số, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân là 5,7%/năm (giai đoạn 2020-2025) và 5,9%/năm (giai đoạn 2025-2030). Dựa trên bốn kịch bản phát triển kinh số trong Báo cáo “Tương lai nền Kinh tế số của Việt Nam hướng tới năm 2030 và 2045”, nghiên cứu này với phương pháp tính toán theo mô hình kinh tế “hàm sản xuất truyền thống” đã ước tính đóng góp của kinh tế số đến năng suất lao động giai đoạn 2020-2030, trung bình mỗi năm, chỉ riêng kinh tế số đóng góp từ 7-16,5% trong 100% tốc độ tăng trưởng năng suất lao động tổng thể. Như vậy, có thể thấy kinh tế số là một phần đóng góp quan trọng trong năng suất và hiệu quả của nền kinh tế, và là một động lực mới cho cải thiện nhanh chóng năng suất lao động để đạt được mục tiêu của “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” là Năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 7% trong giai đoạn đến năm 2025 và 8% đến năm 2030.

Thay đổi NSLĐ theo kịch bản phát triển kinh tế số so với kịch bản gốc

(Đơn vị: triệu đồng/lao động, giá so sánh 2010)

Nguồn: Trần Thọ Đạt, Tô Trung Thành (2020)
Nguồn: Trần Thọ Đạt, Tô Trung Thành (2020)

5.Chính sách thúc đẩy kinh tế số và chuyển đổi số

Để khai thác tiềm năng, phát triển kinh tế số, đạt được các mục tiêu đã đề ra, xây dựng nền tảng để kinh tế số phát triển, bắt đầu tăng tốc trong năm 2021 và các năm tiếp theo, cần triển khai một số giải pháp sau:

Trước hết, sớm hoàn thiện khung thể chế, cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo phù hợp với các khuôn khổ pháp lý khu vực và toàn cầu để phát triển kinh tế số, đặc biệt là các mô hình và phương thức kinh doanh mới để kinh tế số sớm tăng quy mô và gia tăng tỷ trọng đóng góp trong tăng trưởng nói chung. Các chính sách về kinh tế số cần bảo đảm cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất trong triển khai và thực hiện các kế hoạch, chương trình về kinh tế số. Cần có những chính sách về: (i) khuyến khích phát triển, hỗ trợ các doanh nghiệp “lõi” trong kinh tế số, chuyển đổi số như các doanh nghiệp chuyển giao và ứng dụng các công nghệ mới; (ii) ưu đãi thuế cho các lĩnh vực phần mềm, khu công nghệ cao, công viên phần mềm; và (iii) khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, phát triển, kinh doanh công nghệ mới, thúc đẩy phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo ở Việt Nam.

Thứ hai, sớm đưa ra một định nghĩa “kinh tế số” được thống nhất rộng rãi, đạt được đồng thuận cao; từ đó đo lường kinh tế số một cách nhất quán để so sánh và xây dựng các giá trị kinh tế số “cơ sở” của một năm, làm căn cứ cho việc đặt mục tiêu phát triển kinh tế số về quy mô và tốc độ phát triển. Trên thực tế, sự bùng nổ của các công nghệ số kéo theo sự hình thành và phát triển đa dạng các hình thức, chiến lược và giải pháp kinh doanh mới dựa trên công cụ số đã che mờ đi nhiều khía cạnh tác động của công nghệ số và kinh tế số tới nền kinh tế. Điều này đặt ra các thách thức lớn trong việc đo lường về kinh tế số. Theo Báo cáo nền kinh tế số Đông Nam Á 2020, kinh tế số Việt Nam đạt khoảng 14 tỷ USD năm 2020 và dự kiến 52 tỷ năm 2025, con số này cách khá xa so với mục tiêu hiện nay Việt Nam đang đặt ra là kinh tế số chiếm 20% GDP, sự khác biệt này có liên quan chủ yếu đến phạm vi đo lường kinh tế số.

Thứ ba, gia tăng đầu tư, đặc biệt là đầu tư công nhằm nâng cấp đồng bộ kết cấu hạ tầng và dịch vụ số thiết yếu và rộng khắp, bao quát mọi ngõ ngách của nền kinh tế và đến từng công dân, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật bảo đảm an toàn, an ninh mạng, nâng cấp hạ tầng các ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu một cách đồng bộ, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp được sử dụng những tiện ích do kinh tế số mang lại. Chính phủ cần tạo dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật số để các doanh nghiệp hòa nhập và nắm bắt được xu hướng và thế mạnh của kinh tế số. Mặt khác, để có thể có một nền kinh tế chuyển đổi số mạnh mẽ, cần phải có một nguồn lực rất lớn, không thể chỉ đến từ nguồn NSNN mà phải dựa chính vào nguồn vốn xã hội đến từ khu vực tư nhân và khu vực FDI. Vì vậy cần tạo các điều kiện căn bản để thu hút được nguồn vốn dành cho đầu tư số hóa nền kinh tế, hạ tầng và dịch vụ số.

Thứ tư, nâng cao nhận thức về phát triển nền kinh tế số và chuyển đổi số quốc gia, qua đó có sự chuẩn bị tốt nhất cho khả năng thích ứng các xu hướng phát triển này đối với doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Các doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt cơ hội, tối ưu hóa mô hình kinh doanh, phát triển kỹ năng mới cho từng cá nhân và tổ chức, sớm triển khai tích hợp công nghệ số hóa, thúc đẩy phát triển những giải pháp sản xuất và kinh doanh dựa trên số hóa, tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, năng cao năng lực quản trị phù hợp với những mô hình sản xuất, kinh doanh và hợp tác mới.

Thứ năm, khi tham gia vào thị trường lao động trong nền kinh tế số, người lao động phải đổi mới để thích nghi với các kỹ năng, kiến thức và các phương thức kinh doanh truyền thống trước đây nay đang dần chuyển sang môi trường số. Nhìn dài hạn hơn, cần phát triển nguồn nhân lực theo hướng tăng cường năng lực tiếp cận và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi, phát triển; từ đó thúc đẩy tư duy sáng tạo, đổi mới hệ thống giáo dục đào tạo với việc thay đổi từ quản lý giáo dục, phương pháp dạy, giáo trình dạy và các môn hoc mới gắn với số hóa. Kỹ năng số cần được giới thiệu tới lứa tuổi trẻ hơn, từ cấp mầm non và nâng dần mức độ cho các lứa tuổi ở cấp độ học cao hơn. Triển khai các chương trình đào tạo, đào tạo lại kỹ năng lãnh đạo, quản lý chuyển đổi số cho người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, giám đốc điều hành và đội ngũ quản trị các cấp của doanh nghiệp.

Thứ sáu, hiểu biết một cách đúng đắn và toàn diện cả về lợi ích cũng như về thách thức đối với kinh tế số là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế số theo con đường tối ưu nhất có thể được. Một thách thức của kinh tế số là góp phần làm sâu sắc thêm phân hóa giàu-nghèo trong xã hội, vì các cơ hội “làm giàu” từ kinh tế số sẽ tùy thuộc vào năng lực thích ứng vốn rất khác nhau của các tác nhân trong nền kinh tế. Ngoài ra, vấn đề thuế kinh tế số như là một hệ quả từ thách thức đo lường kinh tế số, tính đa dạng và sự cải tiến không ngừng các hình thức kinh doanh số sẽ làm gia tăng độ phức tạp của vấn đề thuế đối với kinh tế số trong việc thực hiện bài toán công bằng và hiệu quả.

Với tốc độ phát triển mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu, đặc biệt ở khu vực rất năng động là châu Á, kinh tế số đang tạo ra những cơ hội hiếm có để Việt Nam có thể tận dụng trong bứt tốc phát triển kinh tế đất nước, đạt được những bước tiến quan trọng trên con đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa, nhưng đồng thời cũng đặt ra các thách thức lớn mà nếu không vượt qua sẽ ngày càng tụt hậu. Kinh tế số được xác định là động lực phát triển quan trọng để đưa Việt Nam tiến nhanh, tiến mạnh trở thành quốc gia có công nghệ phát triển, là động lực tăng trưởng rất quan trọng trong những năm tới, góp phần gia tăng năng suất lao động, chuyển đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng. Phát triển kinh tế số và đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia là phương thức để vượt qua bẫy thu nhập trung bình, là cách thức để Việt Nam vẽ lên một tương lai phát triển không chỉ đơn giản là tiếp nối xu hướng của quá khứ mà là đưa nền kinh tế bước vào một quỹ đạo tăng trưởng mới mang tính bứt phá. Trong quá trình phát triển kinh tế số và chuyển đổi số quốc gia, chúng ta cần và có khả năng là người đi trước để rút ngắn khoảng cách với các nước, nếu chậm chân khi kinh tế số và chuyển đổi số đã trở thành phổ biến thì sẽ mất cơ hội vươn lên đi đầu làm chủ công nghệ, mất đi cơ hội thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa, thu hút người tài và chậm phát huy dư địa cho tăng trưởng bền vững. Như nhiều chuyên gia đã nhận định, có thể nói nước ta do hoàn cảnh lịch sử đã bị “chậm chân” trong các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, và đây là lần đầu tiên, Việt Nam có cơ hội “đi cùng” với các nước trong cuộc cách mạng công nghiệp. Bối cảnh hiện nay là “thời cơ vàng” mà ta cần nắm bắt nhanh chóng, hành động kịp thời và quyết liệt, để tận dụng cơ hội phát triển các dư địa và nguồn lực phát triển mới, tối ưu hóa các nguồn lực để tạo ra một năng suất cao hơn góp phần thay đổi thứ hạng quốc gia, đưa nền kinh tế bước vào một quỹ đạo tăng trưởng mới mang tính bứt phá.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52/NQ-TW, ngày 27/09/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0.

Cameron A, Pham T H, Atherton J, Nguyen D H, Nguyen T P, Tran ST T, Nguyen T N & Trinh H Y, Hajkowicz (2019), Tương lai nền kinh tế số Việt Nam hướng tới năm 2030 và 2045.

Chính phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”;

Chính phủ (2021), Quyết định số 411/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt “Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”

Google, Temasesk và Brain and Company (2020). Báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á 2020”.

Google, Temasesk và Brain and Company (2021). Báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á 2021”.

Nguyễn Trọng Đường (2021): https://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe/du-dia-tang-truong-cua-viet-nam-nam-o-kinh-te-so-775481.html

Trần Mai Ước (2021), “Kinh tế số Việt Nam – những điểm nghẽn cần tháo gỡ và các giải pháp cơ bản phát triển kinh tế số theo hướng bền vững””, Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 8/2021

Trần Thọ Đạt, Tô Trung Thành (chủ biên) (2020); “Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên – 2019: Cải thiện năng suất lao động trong bối cảnh kinh tế số”, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân.

[1] Trần Thọ Đạt, Tô Trung Thành (chủ biên); “Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên – 2019: Cải thiện năng suất lao động trong bối cảnh kinh tế số”, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, 2020.

GS. Trần Thọ Đạt, Ninh Đức Hiếu – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

Link nguồn: https://doanhnghiepthuonghieu.vn/kinh-te-so-la-dong-luc-quan-trong-trong-thuc-hien-cong-nghiep-hoa-va-hien-dai-hoa-1132674777-p40688.html