Home Ấn tượng 24H Dỡ bỏ cấm vận Việt – Mỹ 25 năm chặng đường dài...

Dỡ bỏ cấm vận Việt – Mỹ 25 năm chặng đường dài gỡ dần nút thắt 1994-2019

0

Ngày 3/2/1994, cách đây 25 năm, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã tuyên bố dỡ bỏ cấm vận thương mại đối với Việt Nam, khép lại gần 20 năm cấm vận, khép lại những thăng trầm, khó khăn của quá khứ và mở ra một chương mới đầy hứa hẹn trong quan hệ giữa hai nước.

Hành trình gian nan 
Đến giờ, nguyên Đại sứ Lê Văn Bàng vẫn nhớ như in cảm xúc vui đến trào nước mắt khi Tổng thống Clinton tuyên bố bỏ cấm vận với Việt Nam vào ngày 3/2/1994 – một dấu mốc quan trọng dọn đường cho bình thường hóa quan hệ thành công.

“Tôi đã mừng rơi nước mắt khi xem TV, nghe Tổng thống Clinton đọc tuyên bố dỡ bỏ cấm vận với Việt Nam. Chúng ta đã bỏ ra quá nhiều công sức cho điều đó và gặp phải quá nhiều thất vọng… nhưng cuối cùng đã có kết quả, điều đó rất có lợi cho dân tộc chúng ta”, ông kể lại. Theo ông, quá trình bình thường hóa được chuẩn bị từ lâu nhưng được mong mỏi nhất, ước vọng nhất chính là thời điểm bỏ cấm vận. Đó là lúc cả dân tộc mong muốn, cả đất nước mong muốn.

Những tín hiệu khả quan của quá trình dỡ bỏ cấm vận và bình thường hoá quan hệ Việt – Mỹ đến vào cuối năm 1986, ngay trước Đại hội Đảng VI của Việt Nam, Mỹ cử một đoàn do hai Thượng nghị sĩ Hart và Lugar dẫn đầu sang Việt Nam gặp Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Vào khoảng 1990-1991, trong nhiệm kỳ của Tổng thống George H.W. Bush “cha”, một phái đoàn Mỹ khác tiếp tục sang Việt Nam tập trung làm việc về vấn đề nhân đạo, tìm kiếm MIA, nhưng không đề cập đến vấn đề bình thường hóa quan hệ.

Cuối năm 1992, đầu năm 1993, Đại sứ Lê Bàng được cử sang New York làm Đại sứ tại Liên Hợp Quốc với tâm thế là sẽ đi Washington DC để thành lập cơ quan liên lạc nhằm giúp thúc đẩy tiến trình bình thường hóa. Sau đó, hai bên ngầm thực hiện lộ trình 1991-1993.

Tháng 4/1993, Mỹ cử một đoàn do Thượng nghị sĩ Edmund Muskie dẫn đầu sang Việt Nam và Campuchia tìm hiểu và đánh giá hai điều kiện trên, để về nước báo cáo lên chính phủ và quốc hội Mỹ trước khi tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.

Tuy nhiên, khi đoàn của ông Muskie chưa về, một thông tin nhiễu loạn về tình hình Việt Nam khiến dư luận Mỹ sôi sục và chuyến đi của ông Muskie thất bại. Nỗ lực cho lộ trình 1991-1993 của hai phía bỗng chốc tiêu tan. Tập tài liệu mà Morris đưa ra đã kéo lùi tiến trình đàm phán bình thường hóa tới 2 năm. Sau đó, tài liệu này được chứng minh là bịa đặt.

Tổng thống Mỹ Bill Clinton  tuyên bố trước truyền thông và công chúng quyết định Hoa Kỳ thiết lập bang giao chính thức với Việt Nam tại Nhà Trắng hôm 11/7/1995.

Phải đến ngày 3/2/1994, Tổng thống Bill Clinton mới có thể tuyên bố bỏ cấm vận Việt Nam nhưng vẫn chưa bình thường hóa quan hệ. Sau đó, 2 bên tiếp tục thương lượng, giải quyết rất nhiều vấn đề khác. Đến tháng 1/1995, Việt Nam mới đặt Văn phòng Liên lạc tại Washington DC. Vào tháng 7/1995, Việt Nam mở Đại sứ quán tại Washington DC và Đại sứ Lê Bàng trở thành Đại biện lâm thời. Tới năm 1997, hai bên mới trao đổi đại sứ và ông Bàng chính thức là Đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Mỹ.

Trước khi Tổng thống Bill Clinton tuyên bố dỡ bỏ cấm vận khoảng 1 tháng, Đại sứ Lê Bàng đã mường tượng điều này sẽ đến, nhưng một giáo sư Mỹ ở New York ông quen vẫn cho rằng chưa đến thời điểm chín muồi. Tới lúc cấm vận được dỡ bỏ, vị giáo sư tỏ ra rất bất ngờ và viết lên một tờ giấy dòng chữ: “Cấm vận được dỡ bỏ ngày 3/2/1994. Đại sứ Lê Văn Bàng, ông đã chiến thắng” kẹp cùng tờ 5 USD… gửi tặng ông Bàng. Đến giờ, Đại sứ vẫn giữ tờ 5 USD này như một kỷ niệm sâu sắc.

Trong thời gian 9 năm tại Mỹ với các vai trò từ trưởng văn phòng liên lạc, đại biện lâm thời tới đại sứ đầu tiên tại Mỹ, ông Bàng đã cố gắng hết sức làm một  nhịp cầu nối hàn gắn vết thương chiến tranh giữa hai nước. Ông đã đi tới gần 40 bang, có bang ông đến cả mấy chục lần như California hay New York, để nói với người Mỹ rằng: “Việt Nam không phải là chiến tranh, Việt Nam luôn yêu chuộng hòa bình”…

Nhìn lại chặng đường dài của quá trình đàm phán bình thường hóa quan hệ, theo nguyên Đại sứ Lê Văn Bàng, quan hệ Việt – Mỹ bị tác động rất lớn bởi tình hình quan hệ các nước lớn và tình hình khu vực, tới mức có mỗi bên gần như không thể quyết định được bước đi của mình.

Có những lúc hai bên cố gắng tranh thủ tăng cường quan hệ theo nhu cầu chung, nhưng lại bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài, cùng những tác động từ nội bộ hai nước do cái gọi là “hội chứng chiến tranh” đã ăn sâu vào tiềm thức nhiều người dân của cả hai nước, khiến quá trình đàm phán kéo dài tới hai thập kỷ với những những nút thắt hết được tháo gỡ rồi lại buộc vào, lại tháo gỡ.

Những dự cảm và bất ngờ 20 năm sau

Còn riêng với Ông Nguyễn Đình Lương – khi đó là Vụ trưởng Vụ Âu Mỹ và các tổ chức quốc tế của Bộ Thương mại, thời kỳ Mỹ cấm vận đã không ít lần phải giải quyết tình huống phía Mỹ nhắc nhở khi phát hiện hàng Việt có mặt trên đất Mỹ.

Bình thường, hàng hoá Việt Nam không thể vào Mỹ mà hầu như, đều ẩn dưới bóng một thương hiệu, qua quốc gia thứ ba khác,… Chẳng hạn như áo sơ mi của ta rất rẻ, các nước mua về rồi xuất sang Mỹ, rồi cả cà phê của Việt Nam cũng được các nước mua về để xuất sang Mỹ.

Một hôm, đó là năm 1992, đại diện thương mại của Việt Nam ở Hồng Kông điện về thông báo, hải quan Mỹ đang xin vào Hà Nội để kiểm tra một số lô hàng may mặc đi từ Sài Gòn vào Mỹ nhưng dưới xuất xứ nước khác.

Nghe vậy, ông Lương điện sang Mỹ, nói: “Việt Nam với Hoa Kỳ chưa có quan hệ ngoại giao. Do vậy, các ông không vào Việt Nam được. Chúng tôi đề nghị các ông cung cấp đầy đủ thông tin về lô hàng đó, để chúng tôi kiểm tra và khi có kết quả, sẽ báo lại”.

“Sau đó, hải quan Mỹ không nói gì thêm nữa”, ông Lương kể. Và ông hóm hỉnh cười: “Mỹ muốn bắt tận tay lô hàng để trừng phạt. Nhưng chưa bỏ lệnh cấm vận mà anh đã đòi vào là không được!”. Khi trả lời nước Mỹ như vậy, có lẽ, ông Lương cũng không thể ngờ rằng, 25 năm sau, hàng dệt may Việt Nam thẳng cánh vào Mỹ riêng trong năm 2018 đã đạt con số gần 14 tỷ USD, chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ.

Nhìn lại chặng đường 25 năm dở bỏ cấm vận, quy mô thương mại giữa hai nước giờ đã chạm con số 60 tỷ USD. Trước và trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ – Trung tiếp tục leo thang, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tiếp tục tăng mạnh, đạt 34,9 tỷ USD. Đồng thời, vốn đầu tư của Mỹ đứng thứ 7 trong 101 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam.

Ngày 18/1/2019 tại Hà Nội, Hiệp hội Thương mại Mỹ tại Việt Nam (AmCham) vừa buổi lễ nhằm kỷ niệm 25 năm Mỹ và Việt Nam bình thường hoá quan hệ kinh tế. Lễ kỷ niệm có sự tham dự của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, cựu ngoại trưởng Mỹ John Kerry và đông đảo doanh nghiệp hai nước. Việc bình thường hoá quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Mỹ đã mở ra cơ hội mới cho các nhà đầu tư hai bên với giá trị nhiều tỷ USD. “Quá trình bình thường hóa và phát triển quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ từ thù thành bạn, sau đó là đối tác toàn diện ngày hôm nay đã đem lại lợi ích to lớn cho nhân dân hai nước, đóng góp vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới”, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ khẳng định.

Trong 25 năm qua, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Mỹ tăng gần 120 lần, từ 450 triệu USD vào năm 1994 lên hơn 60 tỷ USD vào năm 2018. Trong nhiều năm liên tục, Mỹ luôn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Đồng thời, Việt Nam là một trong những thị trường xuất khẩu có mức tăng trưởng cao nhất của Mỹ.
Phó Thủ tướng cho rằng đầu tư của Mỹ tại Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng vào sự phát triển của Việt Nam. Nổi bật là hoạt động đầu tư của GE, CocaCola, Microsoft, IBM, Nike, ExxonMobil và nhiều tập đoàn, doanh nghiệp khác. Các doanh nghiệp Mỹ đã góp phần tạo dựng cho Việt Nam có một chỗ đứng ngày càng vững chắc trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, Phó Thủ tướng nhận định đầu tư này vẫn còn khiêm tốn so với tiềm năng của cả hai phía.

“Việt Nam luôn coi Mỹ là đối tác quan trọng hàng đầu và sẵn sàng tiếp tục tăng cường hợp tác trên mọi lĩnh vực, đặc biệt trong hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học công nghệ, giáo dục, đào tạo”, lãnh đạo Chính phủ cho hay.

Theo vietmy.net.vn