Năm 2023, ngành lúa gạo Việt Nam được cho là sẽ hưởng lợi từ giá gạo duy trì ở mức cao vì nhu cầu tăng cao, cùng đó là chi phí đầu vào hạ nhiệt.
Xuất khẩu gạo nhiều cơ hội bứt phá
Đầu tháng 3, Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An tất bật chuẩn bị lô gạo chất lượng cao với lượng trên 2.000 tấn xuất khẩu đi Trung Quốc.
Ông Phạm Thái Bình, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An chia sẻ với báo Nhân Dân, đây là tin rất vui vì sau nhiều tháng chững lại, hiện Trung Quốc và nhiều thị trường đang tăng cường mua gạo của Việt Nam.
“Sau đơn hàng này, chúng tôi đang tiếp tục đàm phán tiếp lô hàng khoảng 20.000 tấn sang Trung Quốc. Ngoài ra, Philippines, Indonesia, Malaysia và các nước Trung Đông cũng đang có tín hiệu muốn nhập hàng”, ông Phạm Thái Bình cho biết.
Đơn hàng từ Trung Quốc đã và đang tăng thêm tín hiệu vui cho xuất khẩu gạo nói chung. Theo Tổng cục Hải quan, xuất khẩu gạo tháng 2/2023 ước đạt 430 nghìn tấn với giá trị 231 triệu USD. Lũy kế 2 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo đạt 789 nghìn tấn và 417 triệu USD, giảm 18,8% về khối lượng và giảm 10,8% về giá trị so cùng kỳ năm 2022. Tuy nhiên, giá gạo xuất khẩu bình quân 2 tháng đầu năm 2023 ước đạt 528,5 USD/tấn, tăng 9,8% so cùng kỳ năm 2022.
Bộ Công thương đánh giá, gạo là một trong những mặt hàng có giá xuất khẩu trong 2 tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ. Điểm đáng lưu ý là tháng 2/2023, giá gạo xuất khẩu tại các thị trường chủ chốt ở châu Á diễn biến trái chiều. Trong khi giá gạo xuất khẩu của Thái Lan đi xuống, thì giá gạo của Việt Nam và Ấn Độ tăng lên mức cao nhất trong gần 2 năm do nhu cầu mạnh ngay cả khi rủi ro nguồn cung toàn cầu vẫn còn…
Chuyên gia từ Công ty trách nhiệm hữu hạn Chứng khoán Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (VCBS) cũng nhận định, ngành lúa gạo Việt Nam đang có các yếu tố thiên thời và địa lợi.
Cụ thể, chuyên gia từ VCBS phân tích, việc thời tiết thuận lợi đang tạo ra lợi thế cho doanh nghiệp Việt Nam so với đối thủ cạnh tranh. Trong khi đó, tại Trung Quốc, hạn hán kéo dài khiến sản lượng niên vụ 2021-2022 của nước này giảm 2%. Vì vậy, Trung Quốc dự kiến sẽ tăng nhập khẩu thêm 6 triệu tấn gạo trong niên vụ 2022-2023.
Bên cạnh đó, lượng tồn kho tại Philipines giảm do nhiều diện tích gieo trồng của nước này bị tàn phá bởi bão Noru, chi phí phân bón tăng cao khiến nước này phải gia tăng nhập khẩu gạo. Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) dự báo nước này tiếp tục phải nhập khẩu 2,8 triệu tấn cho niên vụ 2022-2023.
Diện tích gieo cấy tại Ấn Độ giảm 380.000 ha do hạn hán, dự kiến sản lượng của đợt gieo trồng Kharif (thu hoạch vào mùa thu và đầu mùa đông) chiếm 80% sản lượng nước này, có thể lên tới 10-12 triệu tấn cho niên vụ 2022/2023. Theo đó, sự sụt giảm nguồn cung tại Ấn Độ là tác nhân chính cho dự báo thâm hụt gạo toàn cầu năm tới.
Trong khi đó, tình hình thủy văn tại Việt Nam khá ổn định trong năm vừa qua với mưa nhiều và chuyển dần sang trung tính trong nửa đầu năm 2023, được kỳ vọng sẽ cho ra sản lượng ổn định.
VCBS đánh giá cao khả năng năm 2023, Việt Nam được hưởng lợi nhờ xu hướng giá gạo tăng do nguồn cung thu hẹp và sự dịch chuyển nguồn cầu từ Ấn Độ.
Thực tế, nhu cầu lương thực tăng cao đẩy giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ lên mức cao nhất trong gần 2 năm. Một nhà giao dịch gạo tại Mumbai cho biết, nhu cầu đối với gạo Ấn Độ đã tăng mạnh hơn trong vài tuần qua vì giá gạo Ấn Độ ở mức thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh.
Xuất khẩu gạo năm 2022 của Ấn Độ đã tăng lên mức kỷ lục bất chấp các biện pháp hạn chế của chính phủ, do khách hàng tranh thủ giành lấy các đơn hàng có giá cạnh tranh từ nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Để hạn chế giá gạo tăng quá cao ở thị trường trong nước, Chính phủ Ấn Độ có kế hoạch duy trì lệnh cấm xuất khẩu gạo đồ và áp thuế 20% đối với gạo trắng xuất khẩu.
Trong khi đó, tại Bangladesh, giá gạo trong nước cũng tăng cao bất chấp một vụ mùa bội thu và dự trữ dồi dào. Các quan chức nước này lý giải là do tình trạng đầu cơ của các thương nhân. Bangladesh gần đây đã cho phép một số công ty tư nhân nhập khẩu gạo để hạ nhiệt giá gạo địa phương.
Với thị trường EU, theo Hiệp định EVFTA, Việt Nam được cấp hạn ngạch 80.000 tấn, trong đó 30.000 tấn gạo trắng, 30.000 gạo thơm, 20.000 tấn gạo lứt. Do đó, các đơn hàng gạo xuất khẩu nếu nằm trong danh mục trên thì được miễn thuế 175 ER/tấn. Đây là lợi thế rất lớn cho doanh nghiệp nhập khẩu.
Theo một thương nhân ở Việt Nam, nhu cầu gạo trên toàn cầu đang nhích lên do nhiều người lo ngại về bất ổn toàn cầu. Trong nửa đầu tháng Hai, các đơn hàng đến châu Phi và Malaysia thấp hơn nhiều so với năm trước, trong khi những lô hàng đến Trung Quốc và Philippines tăng mạnh.
Theo cân đối của Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tổng lượng gạo hàng hóa dự kiến trong 6 tháng đầu năm 2023 đạt 4,124 triệu tấn; trong đó, xuất khẩu gạo tháng 1 là 390.000 tấn.
Do đó, tiêu thụ gạo hàng hóa 5 tháng còn lại cần đạt là 3,73 triệu tấn, chưa kể lượng gạo nhập khẩu từ Ấn Độ và lượng lúa từ Campuchia chảy về Việt Nam. Thời điểm lượng gạo hàng hóa cần tập trung xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm là tháng 2 đến tháng 4.
Mặc dù tình hình thế giới dự báo khá khó khăn, các doanh nghiệp gạo Việt Nam cho biết, đến cuối quý 1/2023, xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ khởi sắc trở lại khi nguồn cung của thị trường dồi dào.
Trong khi đó, Thái Lan – đối thủ cạnh tranh của Việt Nam đang chịu sức ép về giá khi đồng baht tăng làm giảm lợi nhuận của các nhà phân phối ở nước ngoài. Do đó, nhiều đối tác có thể tìm nguồn hàng mới từ Việt Nam để tối ưu lợi nhuận. Hiện, gạo Việt có nhiều lợi thế về chất lượng và giá ở thị trường Mỹ, EU và Trung Quốc.
Bên cạnh việc giá gạo được duy trì ở mức cao, chuyên gia từ VCBS nhận định, chi phí đầu vào sản xuất lúa gạo dự kiến hạ nhiệt trong năm 2023, do động thái từ châu Âu và nguồn cung phân bón thế giới gia tăng.
VCBS cho biết các nước châu Âu nới lỏng lệnh trừng phạt và mở cửa cho các nhà xuất khẩu phân bón Nga. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng nới lỏng hạn ngạch xuất khẩu phân bón từ tháng 6/2022. Do đó chi phí đầu vào sản xuất lúa gạo năm 2023 được dự báo giảm, góp phần nâng cao biên lợi nhuận của doanh nghiệp.
Giới phân tích nhận định, doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ thuận lợi hơn trong năm 2023, trong bối cảnh giá gạo vẫn duy trì ở mức cao và nhiều loại chi phí sản xuất, xuất khẩu gạo giảm dần giúp biên lợi nhuận doanh nghiệp ngành gạo đi lên.
Xây dựng chiến lược cụ thể cho từng thị trường
Cùng với các dự báo tích cực được đưa ra, các doanh nghiệp cũng nhìn nhận về vấn đề khai thác thị trường. Theo các doanh nghiệp, chúng ta phải có từng chiến lược cụ thể cho từng thị thị trường, có như vậy mới tận dụng được hết các lợi thế.
Ông Võ Công Thức, Giám đốc Quản lý chất lượng Tập đoàn Lộc Trời nêu quan điểm: “Chúng ta nói về rất nhiều thị trường châu Á, châu Phi nhưng rất cần một chiến lược cụ thể cho từng thị trường. Đối với những thị trường quen thuộc thì doanh nghiệp khá am hiểu. Nhưng đối với thị trường mới thì rất cần sự hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác xúc tiến thương mại”.
Bên cạnh đó, thị trường vẫn còn những khó khăn tiềm ẩn. Ông Phan Văn Chinh cho rằng, việc Trung Quốc mở cửa thị trường trở lại là tín hiệu tích cực cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong năm 2023. Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu gạo vẫn còn những khó khăn tiềm ẩn liên quan đến giá cước vận tải biển cao, giá cả đầu vào sản xuất lúa gạo cao, cũng như tình hình xung đột ở một số khu vực trên thế giới tác động đến giá các mặt hàng lương thực khác.
Do vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cần theo sát tín hiệu từ các thị trường. Đặc biệt, doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng gạo, bảo đảm các yêu cầu về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kiểm dịch thực vật, truy xuất nguồn gốc để tận dụng tối đa ưu đãi từ các Hiệp định thương mại tự do. Đồng thời có giải pháp để ứng phó với khó khăn.
Minh Hoa (t/h)