Home Kinh tế vĩ mô Chuyên gia đánh giá nguyên nhân và đưa ra “giải pháp” kiểm...

Chuyên gia đánh giá nguyên nhân và đưa ra “giải pháp” kiểm soát lạm phát

0

Lạm phát năm 2021 của Việt Nam ở mức thấp nhất trong vòng 6 năm qua là đánh giá chia sẻ của TS. Nguyễn Bích Lâm nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê tại diễn đàn “Dự báo kinh tế Việt Nam 2022 – 2023: kịch bản tăng trưởng và triển vọng một số ngành kinh tế chính”.

5 nguyên nhân lạm phát thấp

Thông tin tại diễn đàn, TS. Nguyễn Bích Lâm nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho rằng, có 5 nguyên nhân dẫn đến lạm phát thấp nhất trong vòng 6 năm qua:

– Thứ nhất, tổng cầu của nền kinh tế suy giảm, người dân chỉ tiêu dùng các mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày.

– Thứ hai, chính sách tài khóa hỗ trợ đặc thù, kịp thời và hiệu quả.

– Thứ ba, giá xăng dầu trong năm 2021 diễn biến phức tạp, nhiều thời điểm tăng đột biến do ảnh hưởng của yếu tố kinh tế và chính trị thế giới, nhưng với việc sử dụng linh hoạt, phù hợp Quỹ bình ổn giá xăng dầu đã giúp Việt Nam kiểm soát được tác động của giá xăng dầu tới CPI.

– Thứ tư, do chuẩn bị trước nguồn vật tư, doanh nghiệp cắt giảm chi phí và lợi nhuận, không tăng giá bán sản phẩm trong bối cảnh giá nguyên, nhiên vật liệu thế giới tăng cao.

– Thứ năm, chính sách tiền tệ linh hoạt, đồng bộ, hiệu quả góp phần kiểm soát thành công lạm phát.

Nguyễn Bích Lâm - nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê. 
TS. Nguyễn Bích Lâm – nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê. 

Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê nhấn mạnh, bức tranh kinh tế Việt Nam được chia hai mảng màu sáng và tối. Mảng màu sáng được thể hiện thông qua GDP quý I/2022 ước tính tăng 5,03% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng của quý I các năm 2020 và 2021; vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I/2022 tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó vốn đầu tư khu vực Nhà nước và ngoài Nhà nước đều tăng trên 9%, vốn FDI thực hiện 4 tháng đầu năm ước tính đạt 5,92 tỷ USD, mức cao nhất trong 5 năm qua; tổng kim ngạch XNK hàng hóa 4 tháng đầu năm 2022 đạt 242,19 tỷ USD với 22 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, cán cân thương mại xuất siêu 2,53 tỷ USD. Về lao động, số lao động 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý I/2022 tăng 962,4 nghìn người so với quý trước; số người thiếu việc làm trong độ tuổi giảm 135,2 nghìn người và thu nhập bình quân của lao động làm công hưởng lương tăng 1,2 triệu động so với quý IV/2021.

Còn mảng màu tối được thể hiện bằng việc, ngành nông nghiệp đang đối mặt với những khó khăn khi giá thức ăn chăn nuôi tăng cao; khai thác thủy sản chịu ảnh hưởng của tăng giá xăng dầu; ngành xây dựng có mức tăng thấp, phản ánh khó khăn của ngành này khi triển khai giải ngân vốn đầu tư và thực hiện xây lắp do giá vật liệu xây dựng tăng cao; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 4 tháng đầu năm tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước, loại trừ yếu tố giá tăng 4,3%, thấp hơn 2,9 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2021. Bên cạnh đó, 4 tháng đầu năm 2022, có tới 61,6 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có 35,8% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý I gặp khó khăn và có 33,4% doanh nghiệp có số lượng đơn đặt hàng bị giảm.

Lạm phát 4 tháng đầu năm 2022 trong tầm kiểm soát

Tốc độ tăng CPI bình quân 4 tháng đầu năm 2022 ở mức 2,1% so với cùng kỳ năm trước. Theo đó, nguyên nhân chủ yếu làm CPI 4 tháng tăng:

+ Bình quân 4 tháng đầu năm 2022, giá xăng dầu tăng 48,84% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp tới 1,76 điểm phần trăm trong mức lạm phát bình quân 2,1% của 4 tháng đầu năm; 

+ Giá gas trong nước biến động theo giá xăng dầu và giá gas thế giới, bình quân 4 tháng tăng 24,6%, làm CPI chung tăng 0,36 điểm phần trăm.

Nguyên nhân chủ yếu kiềm chế CPI 4 tháng:

 + Giá các loại thực phẩm bình quân 4 tháng đầu năm giảm 0,94% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá thịt lợn bình quân 4 tháng giảm 21,24% so với cùng kỳ năm trước làm CPI giảm 0,72 điểm phần trăm.

+ Mặc dù giá xăng dầu tăng cao và giá nguyên vật liệu dùng cho sản xuất tăng, do sức mua của người tiêu dùng yếu nên cộng đồng doanh nghiệp chấp nhận giảm bớt lợi nhuận để không tăng giá bán sản phẩm cũng là yếu tố góp phần kiểm soát lạm phát 4 tháng đầu năm nay.

+ Việc thực hiện miễn, giảm học phí của một số địa phương nhằm chia sẻ khó khăn với người dân trong đại dịch cũng đã giúp chỉ số giá nhóm giáo dục giảm 3,93%, tác động làm CPI chung giảm 0,21 điểm phần trăm.

+ Chính phủ chủ động chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp bình ổn giá, hạn chế những tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế – xã hội. Các chính sách được ban hành kịp thời, giảm áp lực đáng kể lên mặt bằng giá như giảm thuế giá trị gia tăng với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ từ 10% xuống còn 8% từ 1/2/2022; giảm mức thu 37 khoản phí, lệ phí trong 6 tháng đầu năm 2022; giảm 50% thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu từ 1/4/2022…

Các yếu tố tạo áp lực đến lạm phát 2022 và 2023

Tại diễn đàn, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cũng nhấn mạnh một số yếu tố tạo áp lực đến lạm phát trong năm 2022 và năm 2023 như sau:

Lạm phát chuỗi cung ứng: là nhóm yếu tố tạo áp lực lớn nhất đến lạm phát của nền kinh tế trong thời gian tới. Kinh tế nước ta có độ mở lớn, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu từ bên ngoài, với tỉ lệ 37% chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu trong tổng chi phí nguyên vật liệu của toàn nền kinh tế; tỷ lệ này trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo – ngành có vai trò là động lực tăng trưởng chủ yếu của nền kinh tế chiếm 50,98%.

Giá nguyên nhiên vật liệu tăng cao: kinh tế Việt Nam có đặc điểm khi giá nguyên vật liệu tăng 1% thì giá sản phẩm đầu ra tăng 2,06%, đồng nghĩa với gia tăng lạm phát của nền kinh tế, do đó rủi ro nhập khẩu lạm phát là không thể tránh khỏi trong bối cảnh các nền kinh tế là đối tác thương mại lớn, quan trọng hàng đầu của Việt Nam như Mỹ, EU, Hàn Quốc… đều dự báo lạm phát ở mức đáng lo ngại.

Tổng cầu tăng đột biến trong bối cảnh đứt gãy chuỗi cung ứng: chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội với quy mô 350 nghìn tỷ đồng, cùng với các gói hỗ trợ của năm 2021 đang thẩm thấu vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế sẽ làm cho tổng cầu tăng đột biến, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ tăng mạnh sau thời gian dài chịu ảnh hưởng của đại dịch là áp lực lớn lên lạm phát trong năm 2022 và 2023.

Trước tình trạng lạm phát tăng cao, theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) khu vực châu Á – Thái Bình Dương, châu lục này đang phải đối mặt với nguy cơ lạm phát đình trệ với dự báo lạm phát tại châu Á sẽ tăng 3,2% trong năm 2022, cao hơn nhiều so với dự báo đưa ra trước đây, đồng thời hạ dự báo tăng trưởng của châu Á xuống còn 4,9%, do tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc giảm tốc.

Theo đó, IMF cũng  dự báo lạm phát năm 2022 của Việt Nam tăng 3,9%, sát ngưỡng mục tiêu kiểm soát 4% đặt ra. Còn Ngân hàng Standard Chartered thì dự báo, lạm phát năm 2022 của Việt Nam vượt mục tiêu 4% Quốc hội đề ra và có thể lên 5,5% trong năm 2023. Công ty Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC) cũng đưa ra dự báo, nếu giá dầu bình quân năm 2022 ở mức 80 USD/thùng lạm phát năm 2022 của Việt Nam có thể đạt mức 4,5%; tuy nhiên nếu giá dầu duy trì trên ngưỡng 100 USD/thùng lạm phát có thể tăng lên mức 5,1%.

Căn cứ vào các yếu tố tác động từ lạm phát chuỗi cung ứng; thiếu hụt nguồn cung; tổng cầu tăng đột biến; thiếu hụt lao động và dự kiến tăng lương tối thiểu vùng. Ngoài ra, giá xăng dầu, giá điện dự báo tăng do nhu cầu sản xuất và tiêu dùng tăng trong thời gian tới; giá lương thực gia tăng theo giá lương thực thế giới; giá thực phẩm, đặc biệt giá thịt dự báo tăng vì giá thức ăn chăn nuôi tăng do đứt gãy chuỗi cung ứng và nhu cầu tiêu dùng cuối năm tăng… TS. Nguyễn Bích Lâm nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê đã đưa ra 8 giải pháp kiểm soát lạm phát trong thời gian tới:

– Chính phủ cần kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, rà soát bãi bỏ các quy định không hợp lý.

– Chính phủ, các bộ, ngành liên quan, đặc biệt cộng đồng doanh nghiệp cần đa dạng nguồn cung.

– Bộ Công thương và Bộ Tài chính cần minh bạch và đơn giản hoá quy trình thương mại; khuyến khích và đẩy mạnh chia sẻ thông tin về thương mại và giá cả; thúc đẩy cạnh tranh trong nước đối với lĩnh vực logistics, thương mại bán buôn và bán lẻ để giảm chi phí thương mại trong nước và quốc tế, giữ khả năng cạnh tranh và thị phần của hàng hoá Việt trên thị trường thế giới. Cùng với đó, tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiên quyết xử lý nghiêm nếu phát hiện có hành vi đầu cơ, tích trữ, thao túng giá. Đối với các mặt hàng thiếu hụt trong dài hạn cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư sản xuất các mặt hàng này, chủ động nguồn nguyên vật liệu, tăng tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.

– Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tài chính cần phối hợp chặt chẽ, thực hiện hài hoà chính sách tài khoá và tiền tệ. Sử dụng chính sách tiền tệ đúng liều lượng, hợp lý, không quá chú trọng vào chính sách tiền tệ để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng vì hỗ trợ tín dụng và hạ lãi suất cho vay dẫn tới gia tăng lạm phát và rủi ro cho hệ thống ngân hàng.

– Cộng đồng doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị đầy đủ các điều kiện đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa. Đối với các mặt hàng thiếu hụt trong ngắn hạn cần có giải pháp nhập khẩu kịp thời nguyên nhiên vật liệu, cắt giảm chi phí sản xuất; đối với các mặt hàng thiếu hụt dài hạn cần chủ động tìm kiếm nguồn hàng và đối tác cung ứng thay thế.

– Bộ Công thương cần nắm bắt kịp thời giá xăng dầu thế giới, nâng cao năng lực và chất lượng dự báo, có giải pháp tổng thể đảm bảo đầy đủ nguồn cung xăng dầu dài hạn hơn. Bộ Tài chính rà soát và tính toán lại các mức chi phí trong cơ cấu tính giá cơ sở mặt hàng xăng dầu và các loại thuế, phí nhằm bảo đảm tính đúng, tính đủ, hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, người tiêu dùng và doanh nghiệp sử dụng xăng dầu.

– Ban Chỉ đạo điều hành giá của Chính phủ cần theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả, lạm phát trên thế giới, kịp thời cảnh báo các nguy cơ gây nên lạm phát trong nước; chỉ đạo các bộ liên quan thực hiện hiệu quả và linh hoạt vai trò điều tiết, bình ổn giá các mặt hàng nhà nước quản lý.

– Bên cạnh đó, các cơ quan truyền thông cần thực hiện hiệu quả hoạt động truyền thông nhằm thông tin kịp thời, chính xác và rõ ràng về các chính sách, giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, loại bỏ thông tin sai lệch về giá cả thị trường, không để xảy ra hiện tượng lạm phát do tâm lý từ thông tin sai gây ra.

Nguyên Khánh

Link nguồn: https://doanhnghiepthuonghieu.vn/chuyen-gia-danh-gia-nguyen-nhan-va-dua-ra-giai-phap-kiem-soat-lam-phat-1462799965-p40070.html