Mặc dù tự xây dựng kế hoạch, đăng ký số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa trong năm 2018 nhưng đến nay cả Hà Nội và TP.HCM đều chưa triển khai được doanh nghiệp nào.
Thông tin với báo chí tại họp báo chuyên đề về “Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước” chiều 19/11, ông Đặng Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) cho biết, theo kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại công văn số 991/TTg-ĐMDN ngày 10/7/2017 thì năm 2018 phải hoàn thành cổ phần hóa ít nhất 85 doanh nghiệp (trong đó có 21 doanh nghiệp thuộc danh mục năm 2017).
Tuy nhiên, đến ngày 10/9/2018 mới cổ phần hóa được 11 doanh nghiệp (trong đó chỉ có 2 doanh nghiệp thuộc danh sách theo công văn số 991/TTg-ĐMDN).
“Tiến độ triển khai cổ phần hóa trong 9 tháng đầu năm 2018 còn chậm, có khả năng không đạt được theo kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt”, ông Tiến cho hay.
Cụ thể, ông Tiến cho biết, TP Hồ Chí Minh theo kế hoạch phải thực hiện cổ phần hóa 39 doanh nghiệp, chiếm 44% tổng số doanh nghiệp phải thực hiện cổ phần hóa năm 2018 nhưng đến nay chưa triển khai được đơn vị nào.
TP Hà Nội phải thực hiện cổ phần hóa 14 doanh nghiệp (kế hoạch năm 2018 là 11 doanh nghiệp và 3 doanh nghiệp thuộc kế hoạch năm 2017 chuyển sang), chiếm 16% tổng số doanh nghiệp phải thực hiện cổ phần hóa năm 2018 và đến nay chưa triển khai được đơn vị nào.
Cũng theo Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp, đến nay Bộ Tài chính vẫn chưa nhận được văn bản xin hoãn hoặc điều chỉnh tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp đã được giao của Hà Nội và TP.HCM.
Hai thành phố này phải có báo cáo giải trình cụ thể về việc chưa cổ phần hóa được doanh nghiệp nào. Bởi lẽ, tiến độ cổ phần hóa, số lượng doanh nghiệp phải cổ phần hóa đều do Hà Nội và TP.HCM tự xây dựng, đăng ký và công bố công khai.
“Nếu 2 địa phương này xin điều chỉnh tiến độ, phải nêu rõ lý do chậm, ai là người chịu trách nhiệm. Lý do này phải được Thủ tướng chấp thuận, cho ý kiến” – ông Tiến cho hay.
Nguyên nhân của sự chậm trễ cổ phần hóa được ông Tiến đưa ra 4 nguyên nhân.
Theo đó, một số Bộ, ngành, địa phương, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước còn chưa thực sự nghiêm túc triển khai kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và chấp hành chế độ báo cáo. Vai trò, nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp, đơn vị còn chưa cao, chưa quyết liệt trong việc đổi mới hoạt động của doanh nghiệp, công khai minh bạch, đúng quy định pháp luật, đảm bảo nguyên tắc thị trường, chống lợi ích nhóm trong cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước.
Một số DNNN chậm sửa đổi bổ sung các định mức kinh tế kỹ thuật, tiêu hao vật tư, nguyên nhiên vật liệu để phù hợp với điều kiện kinh doanh thực tế, từ đó chậm đổi mới quản trị doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Quá trình cổ phần hóa DNNN cần có nhiều thời gian để xử lý vướng mắc về tài chính, đất đai, lao động trong giai đoạn trước cổ phần hóa làm kéo dài thời gian thực hiện cổ phần hóa. Đặc biệt là vấn đề xác lập hồ sơ pháp lý đất đai do Ủy ban nhân dân địa phương thực hiện chậm, kéo dài thời gian hơn so với quy định dẫn đến các doanh nghiệp phải điều chỉnh tiến độ cổ phần hóa.
Cùng với đó, tỷ lệ vốn nhà nước trong phương án cổ phần hóa DNNN còn cao dẫn đến giảm sức hút đối với các nhà đầu tư mua cổ phần, ảnh hưởng đến thành công của việc cổ phần hóa.
Theo Thành Nam/Thương Gia