Ngày 16/6/2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao”. Bài viết tập trung chỉ ra những quan điểm, định hướng cơ bản của Đảng về hoàn thiện pháp luật đất đai được thể hiện trong Nghị quyết, đồng thời đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật đất đai nhằm thể chế hóa kịp thời quan điểm, định hướng đó.
Ảnh minh họa.
Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá của quốc gia, là tư liệu sản xuất quan trọng, gắn liền với sự an cư, lạc nghiệp của người dân. Quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai có giới hạn luôn là sự quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Rất nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng đã trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra các quan điểm, định hướng để lãnh đạo Nhà nước hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai. Ngày 16/6/2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao” (Nghị quyết 18-NQ/TW). Nghị quyết nhận định: Sau gần 10 năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, chính sách, pháp luật về đất đai đã có nhiều đổi mới, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu thực tiễn, từng bước tạo hành lang pháp lý cho việc quản lý và sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, đất đai chưa được khai thác, sử dụng hiệu quả để trở thành nguồn lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Trong một số trường hợp, chính sách, pháp luật về đất đai chưa theo kịp sự thay đổi nhanh chóng của thực tiễn, còn nhiều hạn chế, bất cập, chồng chéo, thiếu thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý, tạo kẽ hở để không ít cá nhân, tổ chức lợi dụng, tham nhũng, trục lợi, gây thất thoát, lãng phí tài sản Nhà nước; tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và vi phạm pháp luật về đất đai còn diễn biến phức tạp, đơn thư tố cáo về đất đai có xu hướng tăng. Nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, tại Nghị quyết, Đảng cũng đã khẳng định những quan điểm, định hướng về hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai trong giai đoạn tới.
Quan điểm, định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam về hoàn thiện pháp luật đất đai
Một là, hoàn thiện pháp luật đất đai bảo đảm nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Với nguyên tắc đó, Đảng khẳng định, quản lý và sử dụng đất phải bảo đảm lợi ích chung của toàn dân; nhân dân được tạo điều kiện tiếp cận, sử dụng đất công bằng, công khai, hiệu quả và bền vững. Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu thông qua việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất tạo ra. Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo lãnh thổ quốc gia, cả về diện tích, chất lượng, giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, môi trường.
Hai là, hoàn thiện pháp luật đất đai theo hướng thừa nhận quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hóa đặc biệt được pháp luật bảo hộ nhưng không phải là quyền sở hữu. Điều đó có nghĩa là, ở Việt Nam, không thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai. Các tổ chức, cá nhân chỉ có quyền sử dụng đất và để tạo điều kiện cho người sử dụng đất có thể khai thác các thuộc tính có ích của đất một cách hiệu quả, pháp luật thừa nhận quyền sử dụng đất là một loại tài sản – quyền tài sản(1). Giới hạn của quyền sử dụng đất được Nhà nước với tư cách là người đại diện chủ sở hữu xác định bằng pháp luật. Người sử dụng đất có quyền và nghĩa vụ sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai. Vì vậy, Nhà nước phải hoàn thiện pháp luật để bảo đảm đất đai được khai thác, sử dụng với hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, Đảng xác định nhiệm vụ hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan đến thị trường quyền sử dụng đất, đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất, có chính sách khuyến khích phát triển thị trường quyền sử dụng đất, nhất là thị trường cho thuê đất nông nghiệp. Mở rộng đối tượng, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng, địa phương, với việc chuyển đổi nghề, việc làm, lao động ở nông thôn. Tạo điều kiện thuận lợi để người sử dụng đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích sản xuất cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo quy hoạch.
Ba là, pháp luật về đất đai phải được hoàn thiện đồng bộ và phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm khơi dậy tiềm năng, phát huy cao nhất giá trị nguồn lực đất đai. Để hoàn thiện pháp luật đất đai, Đảng đề ra mục tiêu, đến năm 2023 phải hoàn thành sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 và một số luật liên quan, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất. Đến năm 2030, hệ thống pháp luật về đất đai cơ bản được hoàn thiện đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, việc hoàn thiện pháp luật đất đai với trọng tâm là hoàn thiện các quy định về đổi mới và nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; hoàn thiện các quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất; hoàn thiện quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; hoàn thiện cơ chế xác định giá đất; hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính về đất đai; hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan đến thị trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất; hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý, sử dụng đất nông nghiệp; xây dựng các quy định pháp luật đối với quản lý và sử dụng đất kết hợp đa mục đích. Các quy định pháp luật được hoàn thiện theo hướng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bỏ khung giá đất, có cơ chế, phương pháp xác định giá đất theo nguyên tắc thị trường. Thực hiện việc giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất. Quy định cơ chế góp quyền sử dụng đất. Tiếp tục thực hiện cơ chế tự thỏa thuận giữa người dân và doanh nghiệp trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đô thị, nhà ở thương mại. Có cơ chế bảo đảm thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, an toàn, bền vững ổn định. Hoàn thiện pháp luật về thuế theo thông lệ quốc tế, phù hợp với trình độ phát triển, điều kiện cụ thể và lộ trình thích hợp để điều tiết sử dụng đất.
Bên cạnh đó, nhằm kiên quyết khắc phục tình trạng tham nhũng, tiêu cực, khiếu kiện về đất đai, đầu cơ và sử dụng đất đai lãng phí, Đảng chỉ ra nhiệm vụ xây dựng chính sách tài chính về đất đai bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư; xây dựng hệ thống thông tin thị trường bất động sản gắn với thông tin đất đai; quy định mức thuế cao hơn đối với người sử dụng nhiều diện tích đất, nhiều nhà ở, đầu cơ đất, chậm sử dụng đất, bỏ đất hoang; bổ sung, hoàn thiện các quy định bảo đảm công khai, minh bạch giá đất, bắt buộc giao dịch qua các sàn giao dịch, thanh toán qua ngân hàng, không dùng tiền mặt; xử lý nghiêm các vi phạm trong đó có các trường hợp đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng không sử dụng hoặc chậm sử dụng. Kiên quyết thu hồi đất của tổ chức, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp sử dụng đất không đúng mục đích, nhất là tại các vị trí có lợi thế, khả năng sinh lợi cao, ngăn chặn thất thoát vốn, tài sản nhà nước.
Bốn là, hoàn thiện pháp luật đất đai nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai, hiện đại hóa công tác quản lý, dịch vụ công về đất đai. Hoàn thành kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đất đai bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ, thống nhất, loại bỏ khâu trung gian, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền phù hợp, cải cách thủ tục hành chính, kèm theo cơ chế kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực, xử lý vi phạm. Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao năng lực các tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai. Có cơ chế đầu tư, chính sách đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ cán bộ, công chức ngành quản lý đất đai; nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, đáp ứng yêu cầu quản lý hiện đại.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân trong trong quản lý và sử dụng đất. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, nhất là người đứng đầu tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về đất đai, phải chịu trách nhiệm nếu để các tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi mình quản lý vi phạm pháp luật, trục lợi trong xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai. Tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội các cấp và nhân dân nhằm phát hiện và phản ánh kịp thời những vướng mắc, bất cập trong thi hành chính sách, pháp luật về đất đai và kiến nghị hoàn thiện.
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật đất đai theo tinh thần Nghị quyết 18-NQ/TW
Hoàn thiện pháp luật đất đai, “kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa, triển khai đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng”(2) là nội dung tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Để góp phần thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII mà trực tiếp là Nghị quyết 18-NQ/TW, cần chú trọng một số giải pháp sau đây:
Nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò, sự tác động của pháp luật đất đai đối với sự phát triển chung của xã hội và đối với các tổ chức, cá nhân
Trước hết, muốn thực hiện thành công chủ trương hoàn thiện pháp luật đất đai, cần làm cho các chủ thể trong xã hội nhận thức rõ vai trò của pháp luật đất đai đối với sự phát triển chung của đất nước, của xã hội và sự tác động của nó đến từng chủ thể sử dụng đất. Cần tiếp tục tuyên truyền về chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật, thực hiện tinh thần thượng tôn pháp luật ở Việt Nam để mọi chủ thể trong xã hội nhận thức rõ về việc hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật đất đai nói riêng có vai trò định hướng sự phát triển chung của xã hội và là căn cứ quan trọng xác định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong xã hội. Vì vậy, đây là một yêu cầu bắt buộc, là công việc phải làm thường xuyên và có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tích cực thông tin rộng rãi về những tác động tích cực, tiêu cực đối với xã hội và người dân của pháp luật đất đai trong thời gian vừa qua. Mọi chủ thể trong xã hội cần nhận thức rõ, sự hoàn thiện pháp luật đất đai ở Việt Nam trong thời gian qua đã góp phần bảo đảm nguồn lực đất đai được khai thác, sử dụng hiệu quả hơn cho phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, tạo sự bình đẳng hơn giữa các chủ thể sử dụng đất. Tuy nhiên, sự bất cập của chính sách, pháp luật về đất đai còn nhiều hạn chế, bất cập, chồng chéo, thiếu thống nhất, chậm được sửa đổi bổ sung ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý, tạo kẽ hở để không ít cá nhân, tổ chức lợi dụng, tham nhũng, trục lợi, gây thất thoát, lãng phí tài sản Nhà nước, làm ảnh hưởng đến quyền lợi, đời sống và sinh kế của người dân(3), là nguyên nhân dẫn đến khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện về đất đai. Từ đó, nâng cao nhận thức của mọi chủ thể trong xã hội về trách nhiệm của mình trong việc góp phần đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao.
Tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết 18-NQ/TW đến từng đảng viên và toàn xã hội
Từng chi bộ, đảng bộ phải chủ động tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện Nghị quyết để tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của cả hệ thống chính trị. Đặc biệt, ở Việt Nam, nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc hiến định, Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Vì vậy, Nghị quyết của Đảng không chỉ được phổ biến đến đảng viên mà cần được phổ biến đến tất cả các chủ thể trong xã hội, xác định các nội dung trọng tâm, có nhiều tác động tới xã hội để tập trung tuyên truyền, tạo sự đồng thuận của nhân dân, đồng thời để các chủ thể trong xã hội nhận thức rõ các quan điểm, định hướng của Đảng về pháp luật đất đai. Trên cơ sở đó, giúp người dân thấy được quan điểm, định hướng nào đã được thể chế hóa, quan điểm, định hướng nào chưa được thể chế hóa, những điểm gì thể chế hóa đúng, điểm gì chưa đúng; có thể nhận thức đúng những bất cập, hạn chế trong quản lý, sử dụng đất hiện nay đã phát sinh từ khâu nào để có thể đóng góp hoàn thiện một cách chính xác nhất.
Coi trọng tổng kết, đánh giá thực tiễn thực hiện Luật Đất đai năm 2013
Hoàn thiện pháp luật đất đai phải xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn nhằm bảo đảm tính khả thi, hiệu quả của các quy định pháp luật. Để có căn cứ sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013 vào năm 2023 và hoàn pháp luật đất đai đến năm 2030 nói chung, các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục cập nhật, tổng kết, đánh giá việc thi hành Luật Đất đai năm 2013 trong những năm vừa qua, chỉ rõ những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện, đồng thời kiến nghị các phương án sửa đổi trong thời gian tới. Việc tổng kết, đánh giá thực tiễn thực hiện Luật Đất đai năm 2013 vừa phải bảo đảm tính kịp thời, phù hợp với lộ trình sửa đổi Luật mà Nghị quyết 18-NQ/TW đã đưa ra, đồng thời phải được thực hiện một cách nghiêm túc, toàn diện, tránh hình thức. Những kiến nghị sửa đổi phải xuất phát từ lợi ích tổng thể của đất nước, xã hội, quyền, lợi ích của nhân dân. Cần tránh tình trạng lợi dụng việc đề xuất chính sách để lồng ghép lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ. Bên cạnh đó, những tổng kết, đánh giá của các bộ, ngành, địa phương cần được công khai, minh bạch để người dân có thể tiếp cận. Đây là kênh giúp người dân có thể hiểu cặn kẽ các quy định của pháp luật đất đai, những tác động của nó trong đời sống thực tế và có căn cứ khoa học cho những kiến nghị của mình.
Khẩn trương xây dựng Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi và chú trọng việc đánh giá tác động
Để có thể thực hiện mục tiêu “Đến năm 2023 phải hoàn thành sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 và một số luật liên quan, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất”(4), Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi cần sớm được xây dựng, hoàn chỉnh để có thể thực hiện các bước tiếp theo của quy trình xây dựng luật. Chất lượng Dự thảo Luật có ý nghĩa quyết định chất lượng đạo luật được ban hành. Dự thảo Luật sửa đổi trước hết phải thể hiện quan điểm, định hướng của Đảng, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam và xu hướng hội nhập quốc tế. Để bảo đảm tính khả thi của Luật, hạn chế tình trạng không dự báo được nguồn lực, các điều kiện cần thiết để thực hiện, hạn chế những tác động tiêu cực của Luật đến sự phát triển kinh tế – xã hội, đến các đối tượng liên quan, cần chú trọng khâu giá tác động của đạo luật sau khi được sửa đổi. Hiện “có đến 112 luật, bộ luật hiện hành có liên quan đến Luật Đất đai. Trong đó 88 luật có quy phạm pháp luật về đất đai; 24 luật có ảnh hưởng đến quá trình quản lý, sử dụng đất; 22 luật có nội dung vướng mắc, chồng chéo với Luật Đất đai hiện hành”(5). Do đó, cần dự báo những tác động của Luật Đất đai sửa đổi đến các văn bản pháp luật hiện hành trong hệ thống pháp luật. Cần trả lời câu hỏi, nếu Luật Đất đai được sửa đổi, sẽ có bao nhiêu văn bản quy phạm pháp luật cần được sửa đổi, cần sửa đổi nội dung nào và điều chỉnh như thế nào để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với Luật Đất đai. Bên cạnh đó, cần đánh giá sự toàn diện của các biện pháp, sự tương xứng, hợp lý của các chế tài trong Dự thảo so với yêu cầu giải quyết vấn đề; đánh giá sự tác động của đạo luật đến sự thay đổi của các thiết chế mà đặc biệt là bộ máy nhà nước từ Trung ương xuống địa phương để có thể thực hiện hiệu quả chức năng và thẩm quyền luật định; sẽ cần bao nhiêu chi phí tài chính và những điều kiện vật chất để tổ chức thi hành luật sau khi được ban hành trong từng giai đoạn. Đặc biệt, với phương châm “lấy nhân dân làm trung tâm”, “lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(6), cần thận trọng đánh giá sự tác động của đạo luật đến quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân mà cụ thể hơn là người sử dụng đất, đồng thời đặt trong mối quan hệ với lợi ích chung của đất nước, xã hội, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo đảm nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Huy động sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong việc hoàn thiện pháp luật đất đai
Một trong những nguyên tắc quan trọng trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật là “bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật”(7). Trong quá trình sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản liên quan, cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo và cơ quan, tổ chức có liên quan có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý kiến về Dự thảo Luật, để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện phản biện xã hội đối với Dự thảo Luật; tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của Luật. Ý kiến tham gia về Dự thảo Luật và ý kiến phản biện xã hội phải được nghiên cứu, giải trình, tiếp thu trong quá trình chỉnh lý Dự thảo. Trong quá trình lấy ý kiến, cần phân loại nội dung để lựa chọn các hình thức cho phù hợp. Đăng công khai Dự thảo Luật trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Cổng thông tin điện tử Bộ Tài nguyên và Môi trường và các cơ quan, tổ chức, truyền thông cung cấp thông tin về các nội dung sửa đổi của Luật Đất đai để tiếp nhận các thông tin, ý kiến phản biện từ cộng đồng, xã hội. Cần lựa chọn ra những nội dung phức tạp, đòi hỏi sự hiểu biết chuyên sâu để tham vấn các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý. Đối với những vấn đề có liên quan đến nhiều chủ thể, đang có nhiều ý kiến trái chiều phải tổ chức các hội nghị, hội thảo, tranh luận công khai, minh bạch để có thể lựa chọn được phương án tối ưu nhất.
(1) Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.(2) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.180,181. (3) “Tất cả các địa phương, doanh nghiệp đã giải tỏa công trình đền bù nhưng vướng Luật Đất đai và Luật Đấu thầu nên không xử lý được. Nếu kéo dài đến kỳ họp thứ 4 mới đưa trình luật này thì hàng trăm nghìn tỷ đồng sẽ ứ đọng và doanh nghiệp gặp tình trạng rất nguy hiểm. Nếu không kịp trình thì Quốc hội phải đưa ra nghị quyết để giải tỏa bức xúc của doanh nghiệp” – https://tienphong.vn/hang-tram-nghin-ty-dong-u-dong-vi-cham-sua-doi-luat-dat-dai-post1357764.tpo(4) Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao”.(5) https://plo.vn/sap-cong-bo-du-thao-luat-dat-dai-sua-doi-de-nguoi-dan-gop-y-post688062.html(6) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.99, 28. (7) Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. |
TS VŨ NGỌC HÀ – Học viện Chính trị khu vực I