Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn với làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực bất động sản (BĐS).
Theo đánh giá, năm 2019 thị trường BĐS tại Việt Nam không có dấu hiệu đi xuống nhưng cũng không thực sự “bùng nổ” như kỳ vọng bởi những khó khăn mà nhà đầu tư đang gặp phải.
Tranh chấp thương mại
Phó Viện trưởng Viện nghiên cứ quản lý Trung ương Trần Kim Chung cho biết, thời điểm hiện tại những tranh chấp thương mại xảy ra giữa các cường quốc, đã có những tác động nhất định đến thị trường BĐS tại Việt Nam. Theo đó, các nhà đầu tư có xu hướng chuyển dịch địa bàn sản xuất từ các nước trong khu vực vào Việt Nam, giúp cho phân khúc BĐS công nghiệp vốn đã đầy tiềm năng nay lại có thêm cơ hội phát triển.
“Về mặt lý thuyết, những tranh chấp thương mại đang xảy ra giữa các cường quốc sẽ mang đến những rủi ro cho thị trường BĐS. Nhưng rủi ro này mang lại lợi ích nhiều hơn là có hại” – ông Trần Kim Chung nói.
Những năm gần đây, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đổ vào Việt Nam tăng trưởng ổn định theo từng năm. Đặc biệt, trong 4 tháng đầu năm 2019, tổng số vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng thêm vào lĩnh vực BĐS đạt 1,1 tỷ đô la Mỹ, con số kỷ lục so với cùng kỳ của 4 năm vừa qua và đứng thứ hai về thu hút đầu tư FDI vào Việt Nam trong 4 tháng.
Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, việc vốn đầu tư nước ngoài đổ vào thị trường ngày càng lớn ngoài vấn đề mang lại sự tăng trưởng ổn định cho nền kinh tế, thì cũng tiềm ẩn những rủi ro nhất định. Việc tăng trưởng phụ thuộc vào nguồn vốn từ bên ngoài không đảm bảo sự phát triển bền vững, chỉ mang lại những lợi ích ngắn hạn, còn lợi ích trung hạn, dài hạn thì các doanh nghiệp đang hoạt động phải tự tạo ra nguồn nội lực cho mình.
Ông Vũ Quang Vinh – Chuyên gia nghiên cứu thị trường (Hiệp hội BĐS Việt Nam) cho biết, nguồn vốn FDI là vô cùng cần thiết đối với thị trường BĐS, giúp kích cầu các hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng là một kênh quan trọng để thu hút các ngành sản xuất phụ trợ.
“Nhưng thực tế, khi một dự án FDI được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, thì họ sẽ sử dụng nguồn vốn theo hai cách: Vốn trực tiếp của doanh nghiệp và vốn vay của ngân hàng tại chính quốc gia sở tại. Vì vậy, đây cũng là vấn đề cần phải được lưu tâm và có nguy cơ xảy ra rủi ro khi thị trường biến động” – ông Vinh cho hay.
Quỹ đất hạn hẹp
Năm 2019, các chính sách về tín dụng nói chung và tín dụng BĐS nói riêng càng siết chặt hơn. Đây cũng là năm đẩy mạnh thực hiện Nghị định số 20/2017/NĐ-CP của Chính phủ liên quan quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết. Nghị định tổng chi phí lãi vay phát sinh trong kỳ của doanh nghiệp được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp không vượt quá 20% tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh, cộng với chi phí lãi vay, chi phí khấu hao của doanh nghiệp.
Trước đó, tại Thông tư 36/2014/TT-NHNN quy định giảm tỷ lệ dùng vốn ngắn hạn và cho vay dài hạn từ 60% xuống 40% trong vòng 2 năm, từ 1/2019 tỷ lệ này đã giảm tới 40%. Trong khi đó, lại tăng tỷ lệ an toàn trong vay bất động sản từ 150% lên 250%.Cũng theo ông Vũ Quang Vinh, cùng với vấn đề siết chặt tín dụng, trong thời gian tới thị trường BĐS sẽ gặp nhiều khó khăn, do quỹ đất sạch ngày càng bị thu hẹp. Trong khi đó,, các dự án đã được phê duyệt đầu tư sẽ mắc phải những thủ tục hành chính do một số điều khoản của Luật đất đai sửa đổi và Luật Quy hoạch được thi hành.
“Dự án thì vẫn còn, nhưng thực tế sản phẩm được đưa ra thị trường sẽ bị hạn chế hơn, dẫn đến việc khan hiếm sản phẩm, dự báo các sản phẩm BĐS có thể sẽ bị chủ đầu tư tiếp tục nâng giá trong thời gian tới” – ông Vinh nhận định.
Theo Mai Vân/ Kinh tế đô thị