Chuyện của những người mong con

Thứ ba, 02/12/2025 10:42
Chia sẻ:

"Người ta mất 9 tháng 10 ngày, chúng tôi phải mất tới 9 năm", đó là câu nói đầy niềm vui và cả nước mắt của anh Đặng Đình Tuân (Hưng Yên) sau một hành trình dài đằng đẵng mà hai vợ chồng đã trải qua, để đến hôm nay được ôm trọn trong lòng hai bé song sinh kháu khỉnh.

Gần một thập kỷ với vô số những chuyến xe liên tỉnh, những lần hy vọng rồi hụt hẫng, rồi lại tự nhủ “cố thêm chút nữa”. Đó cũng là câu chuyện chung của rất nhiều cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn khác, đã, đang trải qua.

Khẳng định bản lĩnh của ngành y Việt Nam trên bản đồ thế giới

Theo một nghiên cứu gần đây của Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, tỷ lệ vô sinh ở các cặp vợ chồng trẻ tại Việt Nam hiện đang ở mức 7,7%. Trong đó, vô sinh nguyên phát là 3,9% và vô sinh thứ phát là 3,8%.

Nếu như 10 năm trước, Trung tâm hỗ trợ sinh sản – Bệnh viện Phụ sản Trung ương mỗi ngày chỉ tiếp đón từ 1- 2 ca vô sinh, hiếm muộn thì đến nay, con số này đã tăng thêm gấp vài chục lần. Ước tính có khoảng hơn 1 triệu cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn trong cả nước. Điều này đặt ra không ít thử thách và gánh nặng cho nền y tế nước nhà.

Trong số đó, vô sinh thứ phát đang gia tăng đến 15 – 20% sau mỗi năm và chiếm hơn 50% các cặp vợ chồng vô sinh. Thực trạng hiếm muộn tăng trên nền giảm dân số càng làm tình trạng già hoá dân số tại Việt Nam tiến triển, gây ra không ít áp lực về mặt xã hội.

Vô sinh và vô sinh thứ phát đang tạo ra không ít áp lực cho ngành y tế nước nhà và xã hội (Ảnh minh hoạ)

Vô sinh và vô sinh thứ phát đang tạo ra không ít áp lực cho ngành y tế nước nhà và xã hội (Ảnh minh hoạ)

Theo dự báo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ở thế kỷ 21 thì vô sinh, hiếm muộn sẽ là căn bệnh nguy hiểm thứ ba, sau ung thư và bệnh tim mạch. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương có tỷ lệ sinh thấp nhất và tỷ lệ vô sinh cao trên thế giới.

May mắn, với sự phát triển của nền y học nước nhà với các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bao gồm thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), sự ám ảnh “không con” đã được thay thế bởi những phép màu.

Từ ca IVF đầu tiên năm 1998, đến nay Việt Nam đã có những bứt phá ngoạn mục. Hiện tại, mỗi năm có khoảng 50.000 chu kỳ IVF được thực hiện tại Việt Nam, và đã có hơn 200.000 trẻ em ra đời nhờ phương pháp này – một minh chứng sống động cho bước tiến vượt bậc của y học trong nước. Việt Nam cũng trở thành điểm đến của nhiều cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn từ nhiều quốc gia trên thế giới tìm đến nhờ tỷ lệ thành công cao, chi phí rẻ. Ngành Y nước nhà không chỉ bắt kịp mà còn có thể định hình xu hướng toàn cầu. Mỗi em bé ra đời từ những nỗ lực ấy không chỉ là niềm vui của một gia đình mà còn là minh chứng cho sự tài hoa, thành công của đội ngũ y bác sĩ, là lời khẳng định cho bản lĩnh của ngành y Việt trên bản đồ y học thế giới.

Những cuộc hành trình với điểm đến là phép màu mang tên "Tiếng khóc trẻ thơ"

Từng là cặp đôi trẻ trung, đầy khát khao, chẳng ai nghĩ hành trình “tìm con” của anh Tuân, chị Quỳnh Anh lại gian nan đến thế. Từ năm 2016, khi cưới nhau mà mãi vẫn chưa có tin vui, họ bắt đầu quen dần với các phòng khám, bệnh viện từ Hưng Yên, Hà Nội cho tới các tỉnh thành khác trong cả nước. Cứ nơi đâu nghe tiếng có thầy tốt, thuốc hay, bác sĩ giỏi là hai vợ chồng lại tìm đến.

Không nhớ tự lúc nào, hai vợ chồng dần quen cả những ánh mắt bác sĩ, quen cảm giác chờ đợi xét nghiệm, quen cả tiếng… thở dài của chính mình. Quen với 1 vạch thử thai, quen cả với những lần IVF thất bại và quen cả với những câu hỏi vô tình nhưng cứa vào lòng: “Bao giờ có cháu bế đấy”, “Lấy nhau lâu như thế rồi mà vẫn chưa có tin vui à?”. Những câu chuyện mà chỉ người trong cuộc mới hiểu, đến giờ nghĩ lại, chị Quỳnh Anh vẫn không khỏi giật mình.

“Có những đêm, hai vợ chồng chỉ biết nắm tay nhau thật chặt, không nói gì, vì nói cũng chẳng biết bắt đầu từ đâu. Tuyệt vọng có, tủi thân có, nhưng chưa một lần chấp nhận buông tay”, chị Quỳnh Anh tâm sự.

Tưởng chừng như khi niềm tin đã cạn thì cũng là lúc bất ngờ, một cánh cửa mở ra với họ. Một ngày đầu năm 2024, từ lời giới thiệu của người quen, anh chị được giới thiệu đến Bệnh viện Hỗ trợ sinh sản và Nam học Đức Phúc (Bệnh viện Đức Phúc) và quyết định thử thêm một lần nữa – cũng có thể là lần cuối bởi sau ngần ấy năm theo đuổi, cả về sức lực lẫn tài chính đều gần như đã cạn.

Được gặp và tư vấn bởi BSCKI Hồ Trung Hiếu – Giám đốc trung tâm hỗ trợ sinh sản – Bệnh viện Đức Phúc, được tư vấn và lên phác đồ riêng, hai vợ chồng lại có thêm dũng khí. Chính lần “mượn thêm được niềm tin” để bước tiếp ấy lại là lần mang đến cả một thế giới cho hai vợ chồng.

Giữa phòng sinh tháng 5/2025, tiếng khóc của hai bé sơ sinh vang lên trong niềm vui chung của cả đại gia đình. Hai cái tên Đặng Đình Minh Phúc, Đặng Đình Hải Minh mang theo biết bao tình yêu và sự gửi gắm. Khoảng khắc ấy, mọi nỗi đau của 9 năm chờ đợi như tan biến.

Vợ chồng anh Đặng Đình Tuân sau gần thập kỷ tìm kiếm, cuối cùng cũng có được

Vợ chồng anh Đặng Đình Tuân sau gần thập kỷ tìm kiếm, cuối cùng cũng có được "trái ngọt IVF" là hai em bé song sinh khoẻ mạnh, kháu khỉnh (Ảnh: NVCC)

Câu chuyện của anh Tuân, chị Quỳnh Anh chỉ là một trong vô số hành trình của những gia đình hiếm muộn khác trên cả nước. 9 năm tưởng đã dài, nhưng thực tế có nhiều trường hợp, hành trình còn dài hơn nhiều lần như thế, miễn là còn hi vọng là còn kiên trì.

Cũng có những trường hợp, tưởng chừng như hoàn toàn tuyệt vọng, nhưng nhờ công nghệ, nhờ sự nỗ lực kiên trì của vợ chồng và tài năng của các bác sĩ đã tạo ra “phép màu”. Đơn cử, trường hợp của vợ chồng anh Lê Văn Uyên, chị Thuỷ Tiên (Hà Nội), khi cả hai đều mang trong mình gen tan máu bẩm sinh (Thalassemia). Từng có lúc, vợ chồng anh chị đã nghĩ tới việc từ bỏ giấc mơ làm cha mẹ, bởi nỗi sợ rằng nếu sinh con, căn bệnh này sẽ theo bé suốt đời, mang đến những ngày tháng đầy khó khăn và đau đớn.

Theo BSCKI Hồ Trung Hiếu, với các cặp vợ chồng cùng mang gen bệnh Thalassemia, nếu sinh tự nhiên, nguy cơ 25% trẻ sinh ra sẽ mắc bệnh. Phác đồ an toàn hiệu quả cao nhất là IVF kết hợp sàng lọc di truyền tiền làm tổ (PGT).
Sau khi thăm khám cụ thể, bác sĩ Hồ Trung Hiếu đã hội chẩn cùng PGS.TS Trần Đức Phấn – Chủ tịch Hội Di truyền Y học Việt Nam và xây dựng phác đồ phù hợp cho gia đình, giúp cả hai vững tin hơn vào hành trình phía trước.

Từng chu kỳ kích trứng, chọc hút trứng, chọn lọc phôi… đều khiến anh chị vừa hồi hộp vừa cầu nguyện. Cuối cùng, các chuyên viên phôi đã chọn được một phôi khoẻ mạnh duy nhất, vượt qua mọi xét nghiệm sàng lọc gen, để chuyển vào tử cung của chị Tiên.

2-3

Vợ chồng anh Lê Văn Uyên, bé Minh Châu chụp ảnh kỷ niệm cùng "ông mụ" BSCKI Hồ Trung Hiếu (Ảnh: NVCC)

Chị Tiên chia sẻ: “Cháu là phôi duy nhất sau sàng lọc, nên từng giai đoạn trải qua đều khiến em lo lắng và hồi hộp. Gần 2 năm theo viện, cuối cùng em mới được đón con”.

Khoảnh khắc nhìn que thử thai hiện hai vạch lần đầu, cả hai vợ chồng không kìm được xúc động, nước mắt trào ra. Từng năm tháng mong con, từng nỗi lo bệnh lý, giờ được bù đắp bằng một niềm hạnh phúc vô bờ. “Thiên thần nhỏ” Minh Châu chào đời khỏe mạnh đã trọn vẹn niềm mơ ước của cha mẹ. Đó cũng là khoảng khắc mà rất nhiều những cặp vợ chồng hiếm muộn có chung hoàn cảnh ao ước.

Mỗi hành trình tìm con khép lại bằng tiếng khóc chào đời không chỉ thắp lên niềm hạnh phúc cho một gia đình, mà còn là lời khẳng định mạnh mẽ rằng với niềm tin, sự kiên trì của người bệnh và tiến bộ của y học Việt Nam, điều tưởng chừng không thể vẫn có thể trở thành kỳ tích".

 

Tin cùng chuyên mục